Mỗi năm, cứ đến ngày 10 tháng 3 Âm Lịch, người Việt , người Việt khắp nơi trên thế giới đều long trọng tổ chức Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương để tưởng nhớ đến Quốc Tổ và các Đấng Tiền Nhân đã có công dựng Nước và giữ Nước, theo đúng tinh thần và đạo lý được đúc kết qua câu đối tại đền Hùng:
Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản, sông Đà, non nước vẫn quy về đất Tổ
Văn minh đương buổi mới, con Hồng, cháu Lạc, giống nòi còn biết nhớ mồ Ông.
Xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc Việt có lúc hưng lúc suy, có lúc hào hùng độc lập riêng một cõi trời Nam, song cũng có lúc chìm đắm trong lửa ngoại xâm, nhưng hầu bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, hễ có người Việt yêu nước là ở đó có ngày Giỗ Tổ, hoặc long trọng, hoặc âm thầm.
Theo truyền thuyết, vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông, của phần đất phía Bắc Việt Nam ngày nay, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh, gặp nàng tiên, lấy nhau, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục làm vua xưng đế hiệu là Kinh Dương Vương và quốc hiệu là Xích Quỉ. Nước Xích Quỉ, Bắc giáp hồ Động Đình, Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), Đông giáp biển Nam Hải và Tây giáp đất Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Năm đó là năm 2879 trước Công Nguyên, tức là cách nay (2003) 4882 năm. Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm làm vua, xưng hiệu Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai là Âu Cơ, sinh một bọc chứa 100 trứng, nở ra 100 con. Sau, vì Lạc Long Quân là giống Rồng, Âu Cơ là giống Tiên, không thể sống chung nhau, nên Lạc Long Quân dẫn 50 con về miền biển, Âu Cơ dẫn 50 con lên núi.
Người con trưởng của Lạc Long Quân nối ngôi vua và xưng là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, kinh đô đặt tại Phong Châu, thuộc Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay.
Như vậy, gia tộc đầu tiên lãnh đạo dân Việt là họ Hồng Bàng, truyền ngôi nhau qua 20 đời vua: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời Hùng Vương kế tiếp nhau trị vì từ năm 2879 đến năm 258 trước Công Nguyên, tức là một triều đại kéo dài 2621 năm, thì bị nhà Thục cướp ngôi.
Đền thờ Hùng Vương hiện nay ở núi Nghĩa Lĩnh, còn gọi là núi Hùng Sơn hay Nghĩa Lương, thuộc Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú. Và ngày giỗ Quốc Tổ được truyền lại đến nay là ngày mồng Mười tháng Ba âm lịch.
Như trên đã trình bày, chúng ta - người Việt Nam - thuộc dòng giống Rồng Tiên.
Rồng tượng trưng dương tính, uy quyền, sức mạnh long trời, lở đất, ẩn hiện, biến hóa; Tiên tượng trưng cho âm tính, vẻ đẹp ôn nhu, hài hòa, nhân từ. Rồng Tiên đúc tạo cho con người Việt có đầy đủ đặc tính: khỏe đẹp, có lý có tình, dũng cảm khôn ngoan, biết quyền lợi mà cũng biết nghĩa vụ.
Dòng giống Rồng Tiên qua quá trình dựng nước và giữ nước đã áp dụng một cách thành công triết lý mang tính cách truyền thống độc đáo của dân tộc ta. Đó là triết lý "vuông tròn" qua sự tích và ý nghĩa của "bánh chưng, bánh dầy".
Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi bình định xong việc nước, tuổi đã già, quyết định truyền ngôi cho người con nào có hiếu nhứt. Nhà vua ra lịnh người con nào dâng món ăn ngon nhứt sẽ được truyền ngôi. Tiết Liêu, người con út, dâng vua cha bánh chưng, bánh dầy làm bằng sản phẩm địa phương: nếp, đậu, thịt. Bánh chưng thì vuông, bánh dầy tròn, tượng trưng cho "đất" và "trời": đất vuông, trời tròn. Nhà vua ăn bánh thấy rất ngon và có ý nghĩa, bèn truyền ngôi cho Tiết Liêu, vì biết rằng ngoài lòng hiếu thảo, Tiết Liêu còn biết cách trị nước có lý, có tình, có phép tắc, có lòng nhân: đó là Vuông Tròn.
Ý nghĩa của triết lý nầy được thể hiện đầy đủ, rõ nét, nổi bật trong đời sống của dân tộc ta.
Trải qua quá trình thăng trầm của lịch sử, trước tham vọng thôn tính, đô hộ, đồng hóa nước ta của bọn nghịch thù phương Bắc, dân tộc Việt vẫn tồn tại: chúng ta vẫn là người Việt, với nền văn hóa Việt mang đầy tính đặc thù của dân tộc ta, một dân tộc bất khuất có truyền thống dựng nước và giữ nước.
Thời đại Hùng Vương, dân tộc ta rất tiến bộ, có tinh thần dân bản và đoàn kết.
Dân ta đã biết cách dẫn thủy nhập điền; biết phá rừng đốt nương làm rẫy; biết gieo mạ cấy lúa, dùng lúa gạo, khoai củ làm nông sản chánh; biết dùng nếp nấu rượu, biết lấy sớ vỏ cây dệt vải, may quần áo, lấy cỏ năn, lác dệt làm chiếu; biết nấu cơm bằng ống tre tươi; biết săn thú rừng, đánh cá; biết làm nhà sàn cao cẳng để tránh thú dữ; biết dùng trầu cau trong lễ cưới gả; biết đập vào cối đá làm hiệu khi có người nhà chết hoặc khi gặp nguy hiểm để làng xóm, láng giềng đến giúp.
Đối với những người sống nghề sông biển, để tránh khỏi bị giống giao long làm hại, vua Hùng dạy dân cách xăm mình gọi là "văn thân" để giống như giao long; cắt tóc ngắn để tiện lội nước.
Quốc Tổ Hùng Vương dạy dân từ nếp sống cổ sơ, đã tiến bộ rất nhanh, từ thời kỳ "đồ đá đập" đến "đồ đá mài", đến "đồ kim khí", biết đúc đồng, đúc sắt để làm đồ dùng, dụng cụ sản xuất nông nghiệp, binh khí, ... nên thời đại đó mới có sự tích Phù Đổng Thiên Vương.
Về mối liên hệ, tương quan giữa vua và dân trong thời kỳ đó thì vua chủ trương mọi việc, đặt chữ cho dân, vỗ về dân khiến cho họ làm ăn yên ổn. Vua tốt thì dân được nhờ, vua ác thì dân nổi loạn, vua mạnh thì bờ cõi yên lành, vua không được dân phục thì phải nhường ngôi cho người khác.
Ngoài ra, mối tương quan nầy còn thể hiện tình gần gũi, thân thương trong gia đình. Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là một vị lãnh đạo có thần thuật trị được yêu quái và hết lòng bảo bọc nhân dân. Khi có nguy cấp, dân kêu cứu với vua "Bố đi đàng nào mà không đến cứu chúng con!" ... thì Ngài từ thủy phủ hiện đến để giải quyết ngay tại chỗ các vấn đề cho dân.
Tinh thần dân bản, dân chủ và đoàn kết lâu đời của dân tộc ta còn thể hiện rõ nét qua Hội Nghị Diên Hồng, bài học Phù Đổng Thiên Vương còn rạng ngời đó.
Có người cho rằng sự tích Phù Đổng Thiên Vương chỉ là chiến công thần kỳ của một cá nhân. Nhưng thật ra, ý nghĩa sâu xa của sự tích nầy thể hiện rõ ràng nhứt đặc tính và truyền thống của dân tộc ta: đoàn kết một lòng từ vua chí dân với quyết tâm chiến thắng. Vua quyết tâm thắng giặc nên tìm nhân tài đánh giặc; bà mẹ nuôi con khó nhọc để dâng hiến cho Tổ Quốc; toàn dân dâng của cải, sức lực cho cuộc chiến: góp sắt để đúc ngựa sắt, roi sắt, đóng góp gạo, thức ăn cho Phù Đổng Thiên Vương ăn để có sức lớn mau, lớn mạnh. Và với tinh thần đó, quyết tâm đó, vua, dân ta thời bấy giờ đã chiến thắng, chiến thắng một cách vẻ vang.
Ngoài ra, dân ta còn có truyền thống thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, lối sống "bầu bí chung giàn", quí trọng tình nghĩa "đồng bào".
Ngày nay, chúng ta vẫn hằng mong ước, cầu nguyện cho ất nước ta được sống trong ấm no, hạnh phúc, hùng mạnh, phú cường, trong ánh sáng bình minh của tự do, dân chủ - một nền dân chủ của dân tộc Việt.
Tại sao chúng ta có những cảm nghĩ, những xót xa đó?
Vì chúng ta thừa hưởng di sản của tổ tiên, có nếp nghĩ và nếp sống Việt Nam: có trước có sau, có lý có tình, có cương có nhu, có vươn có cuộn, có trung có hiếu.
Thành ra, giỗ Tổ Hùng Vương chẳng những có ý nghĩa tôn vinh, mà còn có ý nghĩa nhắc nhở, thúc đẩy chúng ta nêu cao tinh thần Hùng Vương trong cuộc sống: vì đồng bào ruột thịt trong nước, vì Tổ Quốc thương yêu, nhứt là trong thời đại hiện nay, một thời đại chuyển biến thuận chiều theo trào lưu hòa bình, dân chủ, hợp tác phát triển trên toàn thế giới.
Vì vậy, lễ giỗ Quốc Tổ Hùng Vương thật có ý nghĩa biết bao khi ngọn lửa Hùng Vương được bừng sáng mãi trong tâm thức, tình cảm chúng ta bằng những hành động cụ thể, thể hiện tinh thần đoàn kết .Có đoàn kết, bạn bè mới kính nể, kẻ thù mới kiêng sợ.
Làm được như vậy là ta đã biến cái rủi "xa xứ lưu vong" thành cái may "nối tiếp con đường của tiền nhân, mở rộng khung trời Việt Nam qua hầu hết các nước trên thế giới, qua những cộng đồng người Việt mẫu mực, đoàn kết, phát triển và lớn mạnh không ngừng; qua những hình thái văn hóa rất Việt Nam trên những đất nước xa lạ, và ngạo nghễ, hiên ngang sánh vai cùng cộng đồng các sắc tộc khác."
Từ đó, cộng đồng người Việt hải ngoại với những tiềm năng dồi dào về nhân sự, tri thức khoa học, kỹ thuật, nguồn tài chánh và vận động tài chánh, ... sẽ là những nhân tố quan trọng góp phần xây dựng thành công một nước Việt Nam tự do, dân chủ, phú cường trong tương lai. Lúc đó, đất nước ta sẽ là kho tàng gom thâu những tinh hoa, tiến bộ nhứt của thế giới. Nghĩ đến đó, thật sung sướng biết chừng nào!
Xin hãy tiếp tay, góp sức để cho những nụ cười tươi nở mãi trên môi mọi người Việt. Nhứt là đối với cao niên chúng tôi, mãn nguyện lắm rồi, vì ít ra đời chúng tôi còn được nhìn tận mắt Việt Nam tươi sáng. Còn đối với những thế hệ trẻ trong nước hôm nay và mai sau sẽ tự hào, sung sướng biết chừng nào khi khi nhìn thấy con đường tương lai của chính mình, của dân tộc, đất nước thênh thang, rạng rỡ.
Có được như vậy thì chính chúng ta đang giương cao ngọn cờ truyền thống Hùng Vương trên quê hương đó mới chính là ý nghĩa tuyệt vời của Ngày Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương .
Cầu xin cho Việt Nam sớm được tươi sáng trong hạnh phúc tự do dân chủ; và nhất là xin hãy theo gương người xưa "Vì Tổ Quốc Việt Nam! Vì Dân Tộc Việt Nam!".