Vốn là thầy giáo dạy Sử, một chiến lược gia quân sự tài năng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ý thức rất cao về tầm quan trọng của biển, đảo đối với việc phát triển kinh tế, giữ vững an ninh quốc phòng của đất nước. Chính vì vậy, trong chiến dịch giải phóng miền Nam 1975, ngay sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, Đại tướng đã kiến nghị với Bộ Chính trị “vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ”.
Giải phóng Trường Sa
Trong tập sách Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2005), Đại tướng đã dành 5 trang để đề cập về sự kiện giải phóng Trường Sa. Trong hồi ức của mình, Đại tướng đã nhắc lại tầm quan trọng của Hoàng Sa - Trường Sa, quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này. Sự kiện Trung Quốc tấn công quân ngụy, đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa ngày 20-1-1974 càng cho thấy vị trí chiến lược của những mảnh đất xa xôi nơi sóng gió biển Đông.
Đại tướng đã yêu cầu Bộ Tổng tham mưu và Bộ Ngoại giao cung cấp tài liệu về tình hình biển, đảo, để có ngay một kế hoạch giải phóng kịp thời đối với các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ ngoài biển Đông, đồng thời chỉ thị cho Cục Quân báo nắm tình hình địch ở biển Đông. Đại tướng quyết định, cần tổ chức giải phóng kịp thời phần đất này, nếu chậm để quân đội nước khác xâm chiếm nơi đây tình hình sẽ rất phức tạp. Tuy nhiên, lúc bấy giờ lực lượng hải quân của ta còn nhỏ bé, muốn đánh chiếm các đảo phải thực hiện theo phương châm “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Ngày 2-4-1975, Đại tướng đã chỉ thị cho Tướng Lê Trọng Tấn truyền đạt mệnh lệnh cho Quân khu V và Bộ Tư lệnh Hải quân chuẩn bị tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Người lưu ý, vùng này có thể có tàu chiến của Hạm đội 7 của Hoa Kỳ và hải quân các nước khác hoạt động; hải quân ngụy cũng được trang bị các loại tàu lớn. Do đó, nghệ thuật tác chiến phải kiên quyết, táo bạo, đồng thời phải hết sức mưu trí, sáng tạo, bất ngờ. Cùng lúc đó, Đại tướng chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu điều ngay sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh Hải quân vào Đà Nẵng, vừa tiếp quản căn cứ hải quân của địch vừa chuẩn bị sẵn sàng phát triển chiến đấu trên mặt biển để giải phóng các đảo.
Ngày 9-4, Cục Quân báo phát hiện địch chuẩn bị rút quân khỏi các đảo ở biển Đông, Quân ủy Trung ương đã điện tối khẩn cho các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân chuẩn bị giải phóng các đảo, cần phải chớp thời cơ bởi một số nước đang có ý đồ xâm chiếm. 4 ngày sau, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp điện cho đồng chí Chu Huy Mân chỉ đạo việc tiến đánh Trường Sa. Đại tướng lưu ý “việc đánh chiếm các đảo cần làm đúng thời cơ” bởi nếu chậm thì có thể bị nước khác chiếm trước, nhưng nếu sớm quá thì tình hình có thể phức tạp bởi lực lượng của ta mỏng, khó khăn trong việc tiếp viện.
Đại tướng thăm và kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu tại Vùng 1 Hải quân (1973). (Ảnh tư liệu) |
Nhận được lệnh, quân ta đã cho các tàu hải quân giả dạng tàu đánh cá tiến ra Trường Sa. Phương tiện nhỏ và ít, quân ta đánh theo kiểu của mình: Dùng đặc công bí mật tiếp cận, nhanh chóng đổ bộ, bất ngờ vào chiếm mục tiêu. Rạng sáng 14-4-1975, sau hơn một giờ đổ bộ, ta nổ súng tiến công, nhanh chóng tóm gọn quân địch, giải phóng đảo Song Tử Tây. Sau đó, quân ta lần lượt giải phóng các đảo Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn... Đến ngày 28-4, quân ta giải phóng đảo Trường Sa, thu hồi đảo An Bang, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đại tướng Võ Nguyên giáp đã gửi điện khen: “Nhiệt liệt khen ngợi các đơn vị đã hoàn thành nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược”.
Việc giải phóng Trường Sa một cách thần tốc không chỉ chứng tỏ tài điều binh khiển tướng, sự nhạy bén của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà còn chứng tỏ Đại tướng đánh giá rất cao vai trò của biển, đảo đối với nước ta.
Gợi mở về kinh tế biển
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chú ý ngay đến việc phát triển kinh tế biển, đảo. Trong cuốn sách Võ Nguyên Giáp - Hào khí trăm năm (Nhà xuất bản Trẻ, 2012), tác giả Trần Thái Bình cho biết: Trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Phó Thủ tướng), Đại tướng đã đề xuất chiến lược về khoa học biển và kinh tế miền biển. Tại hội nghị về biển lần thứ nhất tổ chức ở Nha Trang năm 1977, Đại tướng nói với các nhà khoa học: “Chúng ta cần phải nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu trong hiểu biết về biển cả để góp phần thúc đẩy khai thác tốt hơn những nguồn lợi mà biển cả đem lại cho đất nước ta”.
Trong tầm nhìn sâu rộng của Đại tướng, phát triển kinh tế biển không chỉ bằng một ngành ngư nghiệp đánh bắt cá mà còn phải nuôi trồng nhiều loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, công nghiệp đóng tàu phát triển, đẩy mạnh giao thương trong nước và nước ngoài... Khi đi thăm các địa phương ở gần biển, Đại tướng lưu ý ngành sinh học biển phải đi sâu nghiên cứu để thúc đẩy phát triển kinh tế biển; từ đặc điểm của từng vùng biển (nhiệt độ, độ mặn, dòng chảy...), các nhà khoa học phải kết luận được “vùng nào nuôi loại cá nào là thích hợp nhất”. Đại tướng còn đặt ra cho giới khoa học những vấn đề mang tính vượt thời gian như việc nghiên cứu sử dụng năng lượng thủy triều để sản xuất điện năng. Người nói: “Việc khai thác dầu khí ngoài biển đã là chuyện trước mắt. Việc sử dụng năng lượng thủy triều ở bờ biển nước ra cũng phải đặt ra rồi. Độ chênh lệch của thủy triều nước ta chứa đựng một tiềm năng quan trọng về năng lượng là rất quý. Vậy có thể có những kiểu máy điện thủy triều được không? Các nhà khoa học vật lý biển phải trả lời vấn đề này”.
Trong chỉ đạo phát triển kinh tế biển, ngay từ ngày ấy Đại tướng đã có những chỉ đạo chiến lược sâu sắc: Kinh tế vùng biển phải từ đất liền mà phát triển ra biển và các hải đảo; đưa dân ra làm kinh tế biển đảo vừa cải thiện đời sống của dân, vừa có lực lượng để thực hiện quốc phòng toàn dân, giữ vững chủ quyền biển đảo. Theo tác giả Trần Thái Bình, tại hội nghị về biển các năm 1981 và 1985, Đại tướng đã xác định phương hướng trọng điểm của kinh tế biển là: Tổ chức đánh bắt, nuôi trồng, chế biến hải sản một cách hợp lý và khoa học; sớm quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải biển và công nghiệp đóng tàu, xây dựng đội tàu mạnh để đẩy mạnh giao thương trong nước và quốc tế; khai thác khoáng sản và hóa phẩm từ biển; đẩy mạnh phát triển du lịch ven biển. Đại tướng đã chỉ đạo phải xây dựng được pháp lệnh quy định rõ về nguyên tắc và chế độ khai thác biển; đặc biệt chú trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khai thác, sử dụng biển và tài nguyên biển...
Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là vị tướng kiệt xuất trên chiến trường mà còn là người có tầm nhìn chiến lược trong việc phát triển khoa học, xây dựng kinh tế biển, đảo. Có những mong muốn của Đại tướng nay đã thành sự thực, có những câu chuyện vẫn còn dở dang... Nhắc lại những chuyện này không chỉ để ngợi ca, mà hơn hết, thế hệ hôm nay cần phải tiếp tục hướng ra phía biển, đó chính là cách để làm theo lời căn dặn của Đại tướng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp mất đi để lại niềm xót thương vô hạn đối với mỗi chúng ta. Đại tướng đã chọn nơi an nghỉ của mình ngay trên núi Thọ Sơn (Quảng Trạch, Quảng Bình) nhìn ra biển bao la.